Thực trạng quản lý Thuế đối với hộ kinh doanh


Hộ kinh doanh (HKD) có vai trò quan trọng, trong việc giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, giảm phân hoá giàu nghèo, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, tình hình kinh doanh của khu vực này khá phức tạp, khả năng tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật về thuế nói riêng của các các HKD chưa cao. Tình trạng trốn thuế, dây dưa nợ đọng thuế còn phổ biến ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế. Để triển khai công tác quản lý thuế HKD có hiệu quả, cần triển khai đồng bộ các giải pháp từ khâu tuyên truyền, quản lý kê khai đến kiểm tra xử lý vi phạm.

Trong nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế cá thể đã và đang phát triển đa dạng, có nhiều tiềm năng và thể hiện vai trò quan trọng đối với nền kinh tế đất nước, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, thực hiện xóa đói giảm nghèo và tăng nguồn thu cho NSNN. Tuy nhiên, công tác quản lý thuế đối với HKD vẫn còn nhiều bất cập, tình trạng trốn thuế, gian lận thuế và nợ đọng thuế gây thất thu NSNN vẫn diễn ra thường xuyên, chưa khuyến khích được ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế. Bên cạnh đó là, hạn chế từ công tác xác định mục tiêu, đối tượng quản lý thuế và công tác tổ chức bộ máy thu thuế cho đến việc thực hiện các quy trình thanh tra, kiểm tra quản lý thuế của cơ quan thuế.

Xác định công tác quản lý thuế đối với HKD có ý nghĩa quan trọng trong nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước (NSNN). Thời gian qua, ngành thuế đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp, từ đó hạn chế thấp nhất tình trạng trốn thuế, gian lận thuế và nợ đọng thuế, góp phần tăng thu cho NSNN. Tại Cục Thuế Thái Bình, hiện đang quản lý đối với HKD cá thể, hàng năm số lượng HKD có xu hướng tăng. Cụ thể, năm 2014, số hộ quản lý là 15.878 HKD; năm 2016, số HKD đang hoạt động đã tăng lên 17.026 hộ, tăng 1.148 hộ, tương ứng tăng 10% so với năm 2014. Trong đó, năm 2016, số HKD thuộc diện nộp thuế là 4.063 hộ; số hộ không thuộc diện nộp là 12.351 hộ; Số HKD sử dụng hóa đơn của cơ quan thuế là 612 hộ, tương ứng với số thuế 32, 5 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2014. Năm 2015, tổng thu nội địa thực hiện là 4.150 tỷ đồng, đạt 135,2% dự toán. Năm 2016, tổng thu nội địa thực hiện 8.245 tỷ đồng, đạt 190,8% dự toán, bằng 176,2% so với năm 2015. Song bên cạnh kết quả đạt được, công tác quản lý thuế HKD cá thể rất phức tạp, tốn nhiều công sức, số thu từ HKD vẫn chưa tương xứng với mức độ kinh doanh thực tế của các HKD, công tác quản lý thu thuế đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa quản lý đầy đủ các HKD trên địa bàn, dẫn đến thất thu nhiều, hoạt động của HKD và những hành vi vi phạm pháp luật thuế ngày càng tinh vi hơn. Bên cạnh đó, vai trò của hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn chưa phát huy vai trò trong công tác phối hợp để xử lý vi phạm nợ đọng thuế của các HKD trên địa bàn. Năm 2014, số nợ thuế đối với HKD trên địa bàn tỉnh là 8% đến năm 2016 là 14%. 

Nguyên nhân, do một phần công tác chỉ đạo điều hành có những mặt hạn chế chưa tìm ra những biện pháp hữu hiệu để chống thất thu thuế. Việc điều chỉnh doanh thu còn chưa sát với thực tế còn mang nặng tính cảm tính, nên doanh số ấn định chưa sát đúng với các HKD. Đặc biệt là, một số ngành hàng như: Vận tải, thương mại dịch vụ,... ý thức chấp hành việc nộp thuế còn hạn chế, còn chây lỳ trong việc nộp thuế, một số HKD khác mượn cửa hàng, cửa hiệu trên danh nghĩa là thành phần góp vốn là cửa hàng trực thuộc các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế để trốn tránh nghĩa vụ thuế. Trong khi đó, sự kiểm tra, giám sát của cơ quan thuế còn thiếu, chưa đồng bộ, số lượng cán bộ còn mỏng, nên việc phát hiện xử lý vi phạm chưa được nghiêm túc và kịp thời. Ngoài ra đó là, số lượng các văn bản hướng dẫn, quy định về việc triển khai các luật thuế mới, quy trình quản lý mới quá nhiều và không thống nhất như: Quy định về quản lý đất đai, quản lý thanh toán không dùng tiền mặt, quản lý xuất nhập khẩu của cơ quan hải quan, quản lý đăng ký kinh doanh của cơ quan kế hoạch đầu tư chưa được ban hành đồng bộ, môi trường kiểm toán, kế toán còn nhiều hạn chế, trách nhiệm pháp lý chưa cao, … Theo Luật Thuế, hàng năm HKD căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ của năm trước và khả năng của năm tiếp theo để tự kê khai doanh thu, chi phí, thu nhập chịu thuế theo mẫu và nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý, chậm nhất là đến ngày 25/1. Như vậy, những kê khai trên thực chất chỉ là dự báo trong thời gian tương đối dài (1 năm) dẫn đến việc HKD sẽ kê khai thấp hơn thực tế sản xuất kinh doanh. Chưa kể, nếu là hộ mới ra kinh doanh sẽ không có căn cứ để kê khai nộp thuế. Bên cạnh đó, việc hướng dẫn các HKD ghi chép hoá đơn, chứng từ, kê khai nộp thuế, đăng ký thuế, lập hồ sơ hoàn thuế, miễn giảm thuế chưa đầy đủ và cụ thể. Việc bỏ ủy nhiệm thu xã, phường, thị trấn chuyển về Chi cục Thuế các huyện, thành phố quản lý đã gây khó khăn cho công tác thu thuế đối với các HKD cá thể do tình hình hoạt động kinh doanh trên địa bàn rộng, tình trạng nợ đọng thuế của các HKD không có biện pháp xử lý thu nợ dứt điểm, nhiều HKD không kê khai nộp thuế kéo dài, tình trạng nghỉ kinh doanh hay chuyển đổi kinh doanh sang lĩnh vực khác của các HKD đang quản lý không kê khai với cơ quan thuế làm cho công tác quản lý càng khó khăn hơn. Các HKD cá thể còn sử dụng hóa đơn chứng từ khi mua và bán hàng chưa nghiêm túc, còn có tình trạng bán lẻ hàng cho các đối tượng tiêu dùng lẻ không xuất hoá đơn, hoặc có ghi hoá đơn nhưng ghi thấp hơn so với giá bán thực tế, nhằm chiếm dụng tiền của NSNN. Vậy, để triển khai công tác quản lý thuế HKD có hiệu quả, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền hỗ trợ

Việc tăng cường công tác tuyên truyền sẽ giúp HKD trên địa bàn nắm được các quy định của Luật Thuế, nâng cao ý thức chấp hành tốt pháp Luật Thuế làm giảm thiểu tình trạng nợ đọng thuế. Tích cực tuyên truyền pháp luật thuế, quan tâm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện về mặt thời gian và thủ tục để HKD từng bước khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất và hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Xây dựng, triển khai đa dạng các phương pháp, hình thức tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, đặc biệt chú trọng cung cấp các hỗ trợ qua hình thức điện tử. ứng dụng công nghệ thông tin, để thiết lập một website “HKD” để các hộ dân dễ dàng tiếp cận, trao đổi các vấn đề về thuế. Tăng cường giải đáp về thuế bằng điện thoại, Internet; Hỗ trợ HKD nộp thuế qua bộ phận “một cửa” tại cơ quan thuế các cấp; Các hội nghị đối thoại cấp Chi cục theo ngành hoặc theo nhóm HKD để trao đổi thông tin với đại diện HKD.

Thứ hai: Hoàn thiện hệ thống Luật, Thông tư, Nghị định về Thuế

Tiếp tục ban hành, hoàn thiện, triển khai đồng bộ quyết liệt các quy định của pháp luật về “siết chặt” hóa đơn bán lẻ của các HKD. Hiện nay, việc “siết” hóa đơn được thực hiện theo Công văn số 5156/TCT-KTNB, ngày 7/11/2016. Tuy nhiên, cần phải nâng cao “hiệu lực” của các quy định này, bằng cách sửa đổi đổi bổ sung Thông tư 92/2015/TT-BTC và đưa các tiêu chí này vào. Mặt khác, để đảm bảo sự thống nhất trong các quy định của pháp luật, nên đưa các dấu hiệu này vào trong các Thông tư, Nghị định quy định về hóa đơn, thanh tra, kiểm tra thuế. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc triển khai ủy nhiệm thu thuế, đối với cá nhân kinh doanh theo phương pháp khoán (cả với sử dụng hóa đơn). Theo đó, các cơ quan thuế ở các tỉnh, thành phố tiếp tục chủ động ký các thỏa thuận hợp tác với các cơ quan bưu chính viễn thông, ngân hàng,… tại địa phương để thu thuế có hiệu quả. Có thể thực hiện theo các phương thức nh ư: Thu tại địa điểm kinh doanh như là đối với HKD ở khu vực chợ, trung tâm thương mại, khu vực đường phố; Thu tại hệ thống đơn vị nhận ủy quyền (tại các bưu điện, ngân hàng); Thu qua thẻ ngân hàng.

Thứ ba: Quản lý kê khai, ấn định thuế đối với các HKD thuộc đối tượng thu theo phương pháp khoán và ổn định thuế

Thực hiện niêm yết công khai thông tin về HKD nộp thuế khoán tại trụ sở UBND xã, phường, trụ sở Đội thuế, Ban quản lý chợ, … và thông báo công khai địa điểm niêm yết cho HKD biết. Duy trì phương pháp quản lý HKD theo đường phố, thôn xóm được theo dõi trên sổ tay chuyên quản của cán bộ thuế; kiểm tra chặt chẽ những hộ nghỉ kinh doanh, những HKD thời vụ, làng nghề,…; tăng cường kiểm tra đối với những hộ nghỉ kinh doanh, xử lý nghiêm các trường hợp “nghỉ giả”. Phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng có liên quan và UBND các phường, xã, thị trấn để rà soát, nắm chính xác số hộ thực tế kinh doanh trên địa bàn và quy mô kinh doanh của hộ, đưa hết các hộ đang kinh doanh vào quản lý; chứng nhận và đăng ký thuế cho tất cả HKD; nắm bắt kịp thời các hộ mới kinh doanh để đôn đốc đăng ký mở mã số thuế; cơ quan thuế tổ chức phân loại HKD theo quy mô và ngành nghề kinh doanh, để áp dụng các biện pháp quản lý thuế phù hợp theo hướng chuyển đổi các hộ sang nộp thuế khoán.

Thứ tư: Tăng cường kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm về thuế

Quản lý chặt chẽ, thu đúng thu đủ, kịp thời đối với các HKD trên địa bàn, chống thất thu đối với hộ khoán doanh thu, việc thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra chống thất thu phải bảo đảm đúng quy định, có trọng tâm, trọng điểm, thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức. Kết hợp đồng bộ và hài hòa các biện pháp thanh tra kiểm tra, khảo sát vận động, tuyên truyền đấu tranh để người nộp thuế tự giác kê khai doanh thu sát với thực tế. Đối chiếu cơ sở dữ liệu của ngành với thực tế quản lý số HKD trên địa bàn, lập danh sách người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro làm căn cứ phải kiểm tra. Như các HKD có quy mô lớn tại các chợ trung tâm, thị trấn, khu đô thị; HKD sử dụng nhiều hóa đơn; HKD ngành nghề ăn uống, dịch vụ có thương hiệu, hoạt động theo chuỗi có từ hai địa điểm kinh doanh trở lên; HKD chuyển lên quy mô lớn, chuyển nhượng thương hiệu; HKD trong lĩnh vực cung cấp vật liệu xây dựng, khai thác đất, cát, sỏi, đá và có nguồn gốc tài nguyên khoáng sản; HKD chuyên cung cấp máy móc thiết bị, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất; HKD quy mô lớn chuyên kinh doanh hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu.

Việc kiểm tra HKD ngành thuế tùy theo từng lĩnh vực ngành nghề kinh doanh sẽ phối hợp các cơ quan liên quan như: Công an, Quản lý thị trường thành lập đoàn kiểm tra liên ngành thực hiện việc kiểm tra khảo sát tại địa bàn kinh doanh thực tế trong thời gian cao điểm, thời gian thấp điểm để xác định doanh thu bình quân, hoặc thực hiện việc kiểm tra, khảo sát gián tiếp thông qua dữ liệu từ nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ đầu vào, khách hàng, … để xác định các yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh hoặc của HKD cùng quy m ô, ngành nghề, địa bàn, từ đó xác định mức doanh thu khoán cho phù hợp. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo công khai minh bạch, tránh việc thỏa thuận ngầm giữa các HKD và cán bộ thuế và HKD núp bóng hộ thuế khoán để sử dụng hóa đơn của cơ quan thuế vào các mục đích bất hợp pháp, xử lý nghiêm các HKD cố tình dây dưa nợ đọng tiền thuế theo đúng quy định của Luật quản lý Thuế.

Đối với các khoản nợ được khoanh nợ, giãn nợ tiếp tục theo dõi, đến hết thời hạn theo các quyết định khoanh, giãn nợ mà HKD chưa nộp hết số thuế nợ thì cần cương quyết thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo Luật Quản lý thuế. Đối với các trường hợp HKD gặp khó khăn khách quan do thiên tai, tai nạn bất ngờ thì xử lý gia hạn nộp thuế. Đối với các khoản nợ thông thường cần phải thường xuyên tổ chức vận động, tuyên truyền, tăng cường xử lý nghiêm minh các vi phạm về thuế để răn đe. Theo dõi sát tình hình kê khai, nộp thuế của HKD để nắm bắt được kịp thời nợ phát sinh, thực hiện các biện pháp đôn đốc thu nộp để không phát sinh nợ mới.

Trong công tác quản lý thuế thực hiện đồng bộ các giải pháp, sẽ góp phần quản lý tốt các HKD tăng nguồn thu cho ngân sách, đồng thời nâng cao ý thức của người nộp thuế./.

Tài liệu tham khảo

Luật Quản lý Thuế số 78/2006/QH11

Luật Thuế sửa đổi năm 2016 số 106/2016/QH13.

Công văn số 5156/TCT-KTNB, ngày 7/11/2016.

Thông tư 92/2015/TT-BTC, ngày 15/6/2015.

Báo cáo Cục Thuế Thái Bình, 2016.

Thông tin tác giả

* TS. Nguyễn Thị Thuỷ

Đơn vị công tác: Bộ môn Kế toán Tài chính, Khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Địa chỉ liên hệ: Email:ntthuyketoan@vnua.edu.vn, điện thoại: 0978832369

Lĩnh vực nghiên cứu: Kế toán, Tài chính, Kinh tế nông nghiệp

Tạp chí đã tham gia gửi bài: Agricultural Marketing Journal of Japan, Agricultural Marketing Journal of Japan, Kế toán & kiểm toán, Khoa học và Phát triển, Lao động và Xã hội.

** Đào Văn Đông

Đơn vị công tác: Cục Thuế tỉnh Thái Bình

Email:dddong.tbi@gdt.gov.vn

Điện thoại: 0912014606

Lĩnh vực nghiên cứu: Kế toán; Thuế.

Đã đăng bài: Tạp chí Thuế Nhà nước, Thời báo Tài chính, Báo Thái Bình, Tạp chí Văn học nghệ thuật Thái Bình, Bản Tin thuế Thái Bình, Website thuế Thái Bình

Theo Tạp chí Kế toán và Kiểm toán của Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) - TS.Nguyễn Thị Thuỷ - Đào Văn Đông * Học viện Nông nghiệp Việt Nam * Cục Thuế tỉnh Thái Bình

Xem thêm
Nhân tố ảnh hưởng đến định giá doanh nghiệp nhỏ và vừa

Nhân tố ảnh hưởng đến định giá doanh nghiệp nhỏ và vừa

Sự thay đổi cần thiết nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Sự thay đổi cần thiết nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Quy định đáng lưu ý về điều kiện cung cấp dịch vụ kế toán qua biên giới

Quy định đáng lưu ý về điều kiện cung cấp dịch vụ kế toán qua biên giới

Về nội dung chế độ kế toán hợp tác xã trên quan điểm so sánh với chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa

Về nội dung chế độ kế toán hợp tác xã trên quan điểm so sánh với chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa

Báo cáo tài chính tích hợp và khả năng công bố báo cáo tài chính tích hợp của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Báo cáo tài chính tích hợp và khả năng công bố báo cáo tài chính tích hợp của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Đối tác
HAA
ACCA
CPA AUSTRALIA
ICAEW
Quảng cáo
PACE
Fast Accounting Online
CIMA
RSM DTL Auditing – Member RSM network
Tổng công ty du lịch Sài Gòn | Saigontourist
Smart Train
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN & TƯ VẤN CHUẨN VIỆT
Đại Học Ngân Hàng - Thành Phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh