Môi trường pháp lý về dịch vụ kiểm toán độc lập ở Việt Nam

“Kiểm toán Độc lập (KTĐL) có thể hiểu là dịch vụ kiểm toán (DVKT) do DN kiểm toán thực hiện, nhằm cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng, nhưng phải đảm bảo vai trò làm tăng độ tin cậy cho thông tin tài chính, nhờ đó các đối tượng có liên quan (nhà đầu tư, ngân hàng...) có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn mang lại hiệu quả kinh tế. Vì vậy, sự phát triển của DVKT là xu thế tất yếu khách quan, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, chất lượng thực tế của hoạt động kiểm toán và khả năng phát triển của thị trường này đang là một vấn đề gây tranh cãi (Đặng Đức Sơn, 2008). Ngành dịch vụ đặc thù này, chỉ có thể phát triển khi có một môi trường pháp lý chặt chẽ, đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bài viết, đề cập đến thực trạng môi trường pháp lý ở Việt Nam đối với DVKT, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tạo nâng cao chất lượng DVKT, cũng như môi trường cạnh tranh lành mạnh cho loại hình dịch vụ đặc thù này phát triển.

Đặt vấn đề

25 năm hình thành và phát triển của KTĐL Việt Nam, quãng thời gian chưa phải là dài so với lịch sử hàng trăm năm hình thành và phát triển của loại hình dịch vụ này, tại các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, dịch vụ KTĐL ở Việt Nam đã ghi nhận một thực tiễn phát triển vượt bậc và đến nay, đã có thể tự tin sánh vai các các nước trong khu vực và được quốc tế thừa nhận. Luật KTĐL năm 2011, là văn bản pháp lý cao nhất khẳng định tầm quan trọng của KTĐL Việt Nam, cũng như sự ghi nhận của xã hội đới với DVKT. Cùng với Luật KTĐL, các Chuẩn mực kế toán và các VAS mới cũng đã được ban hành kế thừa phần lớn các quy chuẩn trong các Chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) và các Chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA). Có thể thấy rõ là, hệ thống khuôn khổ pháp luật về KTĐL đã bám sát và tiệm cận được với các chuẩn mực Quốc tế.

Tuy nhiên, môi trường pháp lý về KTĐL đã thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển của một ngành nghề đặc thù như DVKT chưa? Nghiên cứu này tập trung thảo luận hệ thống pháp luật về dịch vụ KTĐL ở Việt Nam.

Những kết quả đạt được

Hoạt động KTĐL, một mặt thực hiện việc cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng, mặt khác xuất phát từ nhu cầu công khai các thông tin tài chính minh bạch vì lợi ích của công chúng và yêu cầu quản lý của Nhà nước. Với vai trò thiết yếu của DVKT trong nền kinh tế, Nhà nước rất quan tâm đến sự phát triển của KTĐL, không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý, nhằm giúp các DN kiểm toán phát triển cả về số lượng và chất lượng. Môi trường pháp lý về KTĐL là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực DVKT, nhằm giúp KTĐL phát huy tối đa vai trò, chức năng. Cũng như các loại hình dịch vụ khác, KTĐL chỉ có thể phát triển tốt và đạt hiệu quả cao trong môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ.

Luật KTĐL được Quốc hội thông qua ngày 29/3/2011, đã tạo ra khung pháp lý cao nhất về KTĐL, góp phần nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với dịch vụ KTĐL, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; tăng cường quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của DN kiểm toán, KTV hành nghề, cũng như các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động KTĐL. Luật cũng tạo điều kiện cho các DN Việt Nam tiếp cận với DVKT, đặc biệt là các đơn vị có lợi ích công chúng, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư, Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan.

Nghị định 17/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KTĐL và tiếp sau đó là các Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định, nhằm giúp Luật thực sự đi vào đời sống. Nghị định 84/2016/NĐ-CP, ban hành ngày 01/7/2016 về tiêu chuẩn, điều kiện đối với KTV hành nghề, tổ chức kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng.

Nghị định 105/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, KTĐL đã góp phần làm rõ hơn trách nhiệm pháp lý của KTV khi cung cấp DVKT. Ngoài ra, nhiều văn bản pháp luật khác có liên quan đến DN Nhà nước, DN có vốn đầu tư nước ngoài, DN tư nhân. Luật Kế toán sửa đổi số 88/2015/QH13, ngày 20/11/2015,... cũng đã được ban hành, sửa đổi, nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo cơ sở tăng cường chất lượng DVKT của Việt Nam trong xu thế hội nhập.

Để thị trường DVKT có thể thực sự phát triển theo quan hệ cung cầu, không đơn thuần xuất phát từ yêu cầu của pháp luật, thì những quy định mang tính chất chuẩn mực về các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán, quy trình nghiệp vụ của các cuộc kiểm toán, hệ thống phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán là yêu cầu tất yếu. Những quy định đó không những tạo niềm tin cho những người sử dụng thông tin tài chính do KTĐL cung cấp, mà còn là cơ sơ thực hiện DVKT, là thước đo đánh giá công việc của KTV độc lập. Ở nhiều nước trên thế giới, việc nghiên cứu, ban hành các chuẩn mực và quy tắc kế toán, kiểm toán do các tổ chức Hiệp hội nghề nghiệp tiến hành. Đối với các nước thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và một số nước chưa là thành viên của IFAC cũng chấp nhận và coi những nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế do IFAC ban hành làm văn bản pháp quy về kiểm toán của quốc gia mình.

Ở Việt Nam, Bộ Tài chính có trách nhiệm soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kiểm toán (VAS). Hệ thống các chuẩn mực nghề nghiệp ở Việt Nam được ban hành theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, gồm 37 VAS và 01 chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, được ban hành từ năm 1999 đến năm 2005. Các chuẩn mực này được soạn thảo dựa trên các VAS quốc tế có hiệu lực từ trước năm 2000 đến trước năm 2004. Hệ thống VAS Việt Nam đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp lý về kiểm toán, giúp cho nghề nghiệp KTĐL của Việt Nam hoạt động và phát triển như hiện nay. Giai đoạn thứ hai, gồm 47 chuẩn mực, được ban hành từ năm 2012 đến năm 2015, theo đề nghị của Chủ tịch Hội KTV hành nghề Việt Nam (VACPA) và Vụ Chế độ Kế toán - Bộ Tài chính. Các chuẩn mực này được thực hiện trên cơ sở mới có hiệu lực từ 15/12/2009. Các VAS được ban hành đã thể hiện một bước phát triển mạnh trong hoạt động DVKT, đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho hoạt động KTĐL, là cơ sở cho KTV chuyên nghiệp, các DN kiểm toán, kiểm tra, đánh giá các thông tin tài chính một cách trung thực, khoa học và khách quan. VAS là sơ sở cho việc chỉ đạo, giám sát, kiểm tra và đánh giá chất lượng của DVKT, là cơ sở cho việc đào tạo, huấn luyện và thi tuyển KTV. Đồng thời, giúp bảo vệ các KTV hành nghề, các công ty kiểm toán khỏi những rủi ro cao trong nghề nghiệp.

Để tạo môi trường lành mạnh, minh bạch cho các DN kiểm toán hoạt động, Chính phủ đã ban hành các quy định về kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán kiểm toán như Quyết định số 32/2007/QĐ-BTC về Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán; VAS số 220 về kiểm soát chất lượng cuộc kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) ban hành kèm theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính và Thông tư 157/2014/TT- BTC, ngày 23/10/2014. Quy định kiểm soát chất lượng DVKT. Các quy định này, đã thể hiện sự chuyển biến rõ rệt trong bảng chấm điểm kỹ thuật của một cuộc kiểm toán nhằm đánh giá một cách chính xác hơn chất lượng kiểm toán. Cụ thể:

-        2007- 2009: áp dụng bảng câu hỏi để đánh giá các hồ sơ kiểm toán BCTC (mỗi câu hỏi gắn với các yêu cầu của VAS);

-        2010: Phát triển thành bảng chấm điểm kỹ thuật;

-        2011: Bổ sung “Hạ bậc hồ sơ”;

-        2012: Bổ sung “chấm điểm âm” (và Bảng điểm hệ thống);

-        2013: Đã sửa đổi hoàn thiện hơn (bổ sung tài liệu hướng dẫn chấm điểm; Chọn hồ sơ kiểm tra; Nhấn mạnh phải xét đoán chuyên môn về từng thủ tục kiểm toán; ...) - Bùi Văn Mai và Trần Thanh Thảo, 2013

Sau 25 năm hoạt động, KTĐL Việt Nam đã phát triển nhanh về số lượng và quy mô, cũng như năng lực chuyên môn, chất lượng dịch vụ được nâng cao. Đến nay, Việt Nam có 142 công ty đủ điều kiện cung cấp dịch vụ KTĐL với 3.837 nhân sự có Chứng chỉ KTV Việt Nam và nhân sự có Chứng chỉ kế toán, kiểm toán quốc tế ngày càng tăng. Ví dụ như, ACCA là 900 người, cung cấp dịch vụ cho khoảng 36.000 DN, tổ chức thuộc các loại hình cũng như các thành phần kinh tế khác nhau. Những con số này có xu hướng tăng qua các năm và chắc chắn, sẽ vẫn còn tiếp tục tăng lên để đáp ứng nhu cầu dịch vụ của thị trường và của nền kinh tế (Trần Đình Cường, 2016).

Những mặt tồn tại

Dù đã có những bước phát triển đầy ấn tượng về một môi trường pháp lý cho DVKT trong 25 năm qua, nhưng theo Ngô Thị Thúy Quỳnh (2015) thực tế vẫn tồn tại một khoảng cách khá rộng giữa kỳ vọng các của nhà quản lý đối với DVKT và nguyên nhân chính, bởi sự hạn chế của hệ thống pháp lý cho loại hình dịch vụ đặc thù.

  1. 1.      Thứ nhất, hiện nay VACPA,  ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài chính, vẫn thực hiện việc kiểm tra định kỳ hàng năm các hồ sơ kiểm toán tại các DN kiểm toán trên cơ sở luân phiên và chọn mẫu. Tuy nhiên, các quy định nhằm đánh giá các vấn đề về kiểm soát, tính minh bạch và chất lượng hoạt động của các công ty kiểm toán chưa thực sự tốt; các tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc kiểm toán, năng lực KTV còn chưa được chú trọng xây dựng. Vì vậy, trong các khóa cập nhật kiến thức dành cho cán bộ quản lý các DN kiểm toán, vẫn còn nhiều câu hỏi đặt ra như: Điểm số kỹ thuật cao thì có đồng nghĩa với ý kiến kiểm toán phù hợp?
  2. 2.      Thứ hai, tuy đã có Luật KTĐL cùng hệ thống VAS nhưng vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể việc vận dụng các chuẩn mực này trong thực tiễn. Chính vì thế, trong thực tế, các công ty kiểm toán đã tăng cường đưa ra ý kiến ngoại trừ mà không đưa ra ý kiến xem rằng các BCTC đó đã tuân thủ chế độ kế toán và hệ thống chuẩn mực kế toán hiện hành hay chưa, mặc dù ý kiến ngoại trừ quá dài và quá trọng yếu. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng DVKT. Nhiều công ty vừa được các công ty kiểm toán thực hiện kiểm toán, xác nhận thực trạng tài chính nhưng sau đó lại đứng trên bờ vực phá sản hay phá sản với những khoản lỗ hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn ty đồng như: Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết, Công ty Dược Viễn Động DVD, Công ty Cổ phần Vinashin,... Chính điều này đã gây mất lòng tin ở các nhà đầu tư và phần nào, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung, DVKT nói riêng.
  3. 3.      Thứ ba, DVKT là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, là một nghề nghiệp đặc biệt, là một loại dịch vụ đảm bảo do KTV cung cấp, nhằm đưa ra ý kiến về các thông tin được hình thành trên cơ sở chuẩn mực nhất định. Do vậy, hội nhập giúp gia tăng cơ hội phát triển nghề nghiệp, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng rủi ro kinh doanh cho DN kiểm toán như: Cạnh tranh không lành mạnh, giảm giá phí tới dưới mức hợp lý, doanh thu phí kiểm toán không đủ để có thể đầu tư dài hạn vào nhân sự có chất lượng, DN kiểm toán chưa đủ nguồn tài chính để nâng cấp, cập nhật hệ thống cơ sở hạ tầng, chất lượng thông tin đã được kiểm toán chưa đảm bảo, lòng tin của các nhà đầu tư bị giảm sút do báo cáo kiểm toán có tính tin cậy chưa cao,... Thực tế hiện nay, chúng ta chưa có các quy định cụ thể về mức phí kiểm toán, nội dung kiểm toán; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công ty kiểm toán, khách hàng, đơn vị được kiểm toán và các tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả kiểm toán.

Định hướng hoàn thiện môi trường pháp lý

Thực trạng môi trường pháp lý về DVKT đã trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu lực và hiệu quả hoạt động của KTĐL. Để giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn KTĐL và khắc phụ những hạn chế của hệ thống pháp luật về KTĐL, đòi hỏi phải ban hành các các văn bản hướng dẫn vận dụng cụ thể các chuẩn mực, nhằm điều chỉnh các tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc kiểm toán, năng lực KTV; Quy định về mức phí kiểm toán; Nội dung kiểm toán; Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của công ty kiểm toán, khách hàng, đơn vị được kiểm toán và các bên có liêu quan. Chúng tôi tin tưởng rằng nếu chất lượng kiểm toán được giám sát chặt chẽ thì sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các DN kiểm toán và đem lại giá trị bền vững cho các cổ đông, các nhà đầu tư và các bên có lợi ích liên quan.

Các cơ quan quản lý có thể cân nhắc về loại hình DN kiểm toán: Nên quy định DN kiểm toán thành lập và hoạt động theo hình thức công ty hợp danh. Khi đó, trách nhiệm của các thành viên tham gia hợp danh sẽ tăng lên và công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên trong mỗi DN sẽ được chú trọng hơn.

Các cơ quan quản lý, có thể cân nhắc việc rà soát các báo cáo có ý kiến ngoại trừ và các vấn đề nhấn mạnh trong các báo cáo kiểm toán, để tổng hợp và phân tích nguyên nhân của ý kiến ngoại trừ và vấn đề nhấn mạnh. Nếu các vấn đề này liên quan đến các vướng mắc trong việc áp dụng không nhất quán các Chuẩn mực Kế toán và các quy định có liên quan thì các cơ quan quản lý có thể tổ chức hội thảo lấy ý kiến tham gia và trên cơ sở đó đề xuất hoặc ra văn bản hướng dẫn bổ sung thực hiện.

Về kiểm tra, giá sát hoạt động của DN kiểm toán: Trần Thị Giang Tân (2009) đã chỉ ra rằng, kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán là một vấn đề phức tạp, cần có sự tham gia của nhiều tổ chức. Việc kiểm soát chất lượng luôn là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của các công ty kiểm toán mà của cả Nhà nước, ủy ban Chứng khoán. Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản về Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán. Quy chế này dù có những ưu điểm đáng kể, tuy nhiên vẫn còn những bất cập làm cho việc kiểm soát chất lượng không phát huy tác dụng đầy đủ. Vì vậy, việc nghiên cứu mô hình kiểm soát chất lượng của các quốc gia phát triển cao như Hoa Kỳ, có thể giúp Việt Nam rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc hoàn thiện kiểm soát chất lượng cho hoạt động KTĐL.

Về khung giá phí DVKT: Cần có quy định, hướng dẫn về xác định khung giá phí DVKT. Đồng thời, ban hành thêm các quy định kèm chế tài rõ ràng đối với các hoạt động marketing cũng như đối với các công ty kiểm toán chào giá phí cạnh tranh.

Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng cần nghiên cứu thêm các văn bản chính thức chuyển giao thêm chức năng, quyền hạn cho Hội KTV hành nghề Việt Nam; luôn nghiên cứu, cập nhật, thông lệ quốc tế để kịp thời xây dựng và ban hành các chuẩn mực mới điều chỉnh hoạt động của DN kiểm toán, hướng tới chặng đường hội nhập sâu và rộng với khu vực và toàn cầu của Việt Nam trong tương lai gần./.

Tài liệu tham khảo

ü  Quốc hội (2011). Luật KTĐL số 67/2011/QH12.

ü  Trần Đình Cường (2016). Vai trò của công ty kiểm toán nước ngoài trong 25 năm hoạt động của KTĐL ở Việt Nam. 

ü  Bùi Văn Mai và Trần Thanh Thảo (2013). Khóa cập nhật kiến thức dành cho cán bộ quản lý năm 2013.

ü  Ngô Thị Thúy Quỳnh (2015). Giải pháp thu hẹp khoảng cách kỳ vọng giữa KTV và nhà quản lý trong kiểm toán BCTC.

ü  Đặng Đức Sơn (2008). Phát triển thị trường DVKT ở Việt Nam: Những thách thức và giải pháp. Tạp chí Kiểm toán số 10/2008, trang 46-49.

ü  Trần Thị Giang Tân (2009). Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt động KTĐL. NXB Tài chính.

ü  Hệ thống VAS Việt Nam; Các Thông tư, Nghị định, Quyết định về kế toán, kiểm toán

Theo Tạp chí Kế toán & Kiểm toán của Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam – Bài của Th.s Lại Phương Thảo * Khoa Kế toán & QTKD, Học viện Nông nghiệp Việt Nam 

 

Xem thêm
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh dở dang trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo Thông tư số 133/2016/TT-BTC

Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh dở dang trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo Thông tư số 133/2016/TT-BTC

Vận dụng kế toán trách nhiệm vào công tác quản trị doanh nghiệp

Vận dụng kế toán trách nhiệm vào công tác quản trị doanh nghiệp

Sự cần thiết áp dụng Kế toán Môi trường trong Kế toán Việt Nam

Sự cần thiết áp dụng Kế toán Môi trường trong Kế toán Việt Nam

Tiếng Anh với sinh viên đại học chuyên ngành kế toán – kiểm toán

Tiếng Anh với sinh viên đại học chuyên ngành kế toán – kiểm toán

Kinh nghiệm quốc tế về tổ chức Kiểm toán Nội bộ trong các Công ty Niêm yết

Kinh nghiệm quốc tế về tổ chức Kiểm toán Nội bộ trong các Công ty Niêm yết

Đối tác
HAA
ACCA
CPA AUSTRALIA
ICAEW
Quảng cáo
PACE
Fast Accounting Online
CIMA
RSM DTL Auditing – Member RSM network
Tổng công ty du lịch Sài Gòn | Saigontourist
Smart Train
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN & TƯ VẤN CHUẨN VIỆT
Đại Học Ngân Hàng - Thành Phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh